RẰM THÁNG HAI - NGÀY ĐỨC PHẬT NHẬP NIẾT BÀN | Trầm Hương Minh Việt chia sẻ
Theo
truyền thuyết, ngày rằm tháng hai âm lịch là ngày Đức Phật sau 49 năm hoàng
pháp, lúc đấy Ngài giác hạnh viên mãn đã 80 tuổi là ngài tịnh về cõi Niết Bàn.
Kể
rằng, vào khoảng thời gian ấy sắc thân tứ đại của Ngài cũng theo luật vô thường
mà biến đổi, yếu già. Trước đó Ngài vào hạ ở rừng Sa La trong xứ Câu Ly, cách
thành Ba La Nại chừng 120 dặm, Ngài gọi ông A Nan, người đệ tử luôn luôn ở bên
cạnh Ngài đến và phán bảo:
-
A Nan! Ðạo ta nay đã viên mãn. Như lời nguyện xưa, nay ta đã có đủ bốn hạng đệ
tử: Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di. Nhiều đệ tử có thể thay ta chuyển
xe pháp, và đạo ta cũng đã truyền bá khắp nơi. Bây giờ ta có thể rời các ngươi
mà ra đi. Thân hình ta, theo luật vô thường, bây giờ như một cổ xe đã mòn rã.
Ta đã mượn nó để chở pháp, nay xe đã vừa mòn mà pháp cũng đã lan khắp nơi, vậy
ta còn mến tiếc làm gì cái thân tiều tụy này nữa? A Nan! Trong ba tháng nữa ta
sẽ nhập Niết Bàn.
Nghe
tin, Ngài sắp rời xa thân về Niết Bàn, Chúng đệ tử biết tin Phật sắp xa cõi,
bèn tề tựu đông đủ, nghe lời Phật dạy cuối cùng: “Này! Các người phải tự mình
thắp đuốc lên mà đi! Các người hãy lấy Pháp của ta làm đuốc! Hãy theo Pháp của
ta mà tự giải thoát! Ðừng tìm sự giải thoát ở một kẻ nào khác, đừng tìm sự giải
thoát ở một nơi nào khác, ngoài các người!..”
2.
Ý
nghĩa của sự kiện Đức Phật nhập Niết Bàn:
Theo
kinh Phật ghi chép lại về ngày Đức Phật nhập Niết bàn thì đó là ngày 15/2 âm lịch
năm 544 TCN. Từ đó về sau, để ghi nhớ công đức cũng như tưởng học pháp ngài,
ngày rằm tháng hai trở thành một trong bốn ngày rằm lớn của Phật giáo nói chung
và tại Việt Nam cũng tổ chức những dịp trai giới và học đạo lớn những ngày này.
Nhân đó, người Phật tử cũng chọn thời điểm rằm tháng hai âm lịch để tán than công đức, hạnh nguyện to lớn của Đức Phật, diễn giải và lan truyền bài học sâu sắc về ý nghĩa ngày Phật nhập Niết Bàn.
Thứ
nhất: THÂN NGŨ UẨN CHỈ LÀ VÔ THƯỜNG
Chúng
sanh con người có ngũ uẩn, đó là sắc (sắc thân vật lý), thọ (cảm giác), tưởng
(tri giác), hành (trạng thái tâm lý vui buồn tức giận, sung sướng), thức (nhận
thức, thu gom ý tứ).
Tất cả chúng ta đều phải trải qua sinh lão, bệnh tử. Không ai, không sự việc, sự vật gì là tồn tại vĩnh viễn được. Cho nên đừng nên chấp vào ngũ uẩn mà dính mắc không buông.
Ngài
dạy rất kỹ, chúng đệ tử hãy lắng nghe lắng nghe chính bản thân mình mới tự giải
thoát, không ai kéo cứu được chính chúng ta hết. Nhớ rằng trên đời này không có
bất kỳ vật gì, việc gì tồn tại vĩnh viễn được, tiền tài này cũng sẽ bỏ lại,
thân xác này cũng sẽ rời bỏ, chỉ có chân lý đạo Phật là bất biến mà thôi.
Thứ
hai: TÁN DƯƠNG TẤM LÒNG TỪ BI BAO LA CỦA ĐỨC PHẬT
Chưa
nói nhiều về những việc làm công đức vô lượng, thì trong quá trình tu hành của
mình Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ban rất nhiều việc hành pháp, chỉ cần nhìn vào
ngày cuối cùng trước khi nhập diệt thì cũng đủ thấy tấm lòng từ bi của Đức Phật
luôn dành cho chúng sanh.
Lúc này, dù thân mang trọng bệnh, trên đường đi vào rừng SaLa chuẩn bị nhập Niết Bàn, Ngài vẫn hoan hỉ nhận lời cúng dường của ông Thuần Đà. Chuyện là, trong bữa ăn này, Thuần Đà đã cho nấm cực độc vào trong canh dâng lên cúng dường. Lúc bấy giờ Phật không hể nổi nóng, không có bất cứ việc làm gì đi quà tầm kiểm soát.
Để không muốn ai bị trúng độc nhưng lại không muốn Thuần Đà tự trách móc bản thân mình, Đức Phật đã làm hai việc: âm thầm bảo ông A Nan đổ canh đi, và cũng truyền ra ngoài rằng lần cúng dường của Thuần Đà là một trong số hai lần cúng dường đặc biệt nhất trong cuộc đời tu của mình.
Đức
Phật giải thích cho người thắc mắc Tại làm sao biết rõ trong canh có nấm độc mà
vẫn thọ dùng – để độ cho ông Thuần Đà, độ cho ông hướng thiện bằng sự cảm kích.
Nhiêu
đó cũng cho thấy tấm lòng từ bi của Đức Phật là vô cùng to lớn, vô cùng vĩ đại,
trong lúc cơ thể vô cùng đau đơn mệt mỏi trước khi chết thì cũng còn lo lắng
cho người khác, vẫn còn mong độ cho một người quay về hướng thiện.
Thậm chí khi đã tới rừng Sa la, sức cùng lực kiệt, Ngài vẫn cất công căn dặn môn đồ, không để cho mọi người hiểu nhầm ý tốt của Thuần Đà mà trách tội ông.
Lại
nói đến lòng từ bi của Đức Phật vượt qua mọi đau đớn. Trong những giờ phút cuối
cùng trước khi nhập diệt, Ngài vẫn nhận lời xuất gia cho ông Tu Bạt Đà La, đây
cũng là vị đệ tử cuối cùng trong cuộc đời Ngài.
Ngài
cũng hết lòng căn dặn chúng môn đồ về những việc cần làm sau này, phân rõ trách
nhiệm cụ thể cho từng người. Căn dặn xong xuôi còn nhiều lần hỏi chúng đệ tử nếu
có vấn đề gì thắc mắc thì hãy hỏi để Ngài giải thích cho rõ ràng.
Rõ
ràng sự đau đớn về thể xác không thể ngăn được Đức Phật khởi tâm từ bi tới tất
cả mọi chúng sinh, trong mọi hoàn cảnh, đó cũng là tâm nguyện mà Ngài luôn luôn
thực hiện trong suốt cuộc đời hoằng pháp của mình.
Phật
tử noi theo tấm gương của Đức Phật, phải biết cách kiểm soát thân và tâm, có thể
học theo Phật để dùng thiền đi vào cảnh giới an lạc, không để cho thân xác ảnh
hưởng quá nhiều đến tâm trí của mình, từ đó giữ được sự minh mẫn, trí huệ của
mình.
Thứ
ba: ĐỨC PHẬT LÀ TẤM GƯƠNG SÁNG SOI RỌI CHO ĐỜI
Theo
kinh Phật có chép lại, Đức Phật vào định Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền
rồi định Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở Hữu Xứ, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng
và quay ngược lại về Sơ thiền. Tiếp đó Ngài định Sơ thiền tới Tứ thiền rồi mới
nhập Niết bàn.
Ngài
sáng suốt đến lúc nhập định cũng chọn cách tịnh nhất, thiền tâm thiền ý và thiền
thân để ra đi thanh thản. Cho dù nhìn ở góc độ nào đi chăng nữa thì Đức Phật
luôn là tấm gương sáng cho việc tu học, học theo chánh pháp để được giải thoát.
Người đệ tử của Phật luôn tự hào về những pháp Ngài để lại, tự hào là minh đi
đúng con đường đến với sự thông tấn tinh tường, con đường sáng đến với sự giải
thoát cho thân tâm an lạc.
Nay là Rằm Tháng Hai (17/3/2022), Trầm Hương Minh Việt chia sẻ đôi điều về ngày vía Ngài viên tịch, hằng mong học và hành theo pháp Ngài chỉ dạy
Nam mô A Di Đà Phật
Nhận xét
Đăng nhận xét